The tabs are working. Please, note, that you have to add a template to the library in order to be able to display it inside the tabs.
The tabs are working. Please, note, that you have to add a template to the library in order to be able to display it inside the tabs.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu của mặt hàng dệt may và xơ sợi Việt Nam đều cho thấy sự sụt giảm khi 2 mặt hàng này đạt giá trị lần lượt là 2.7 tỷ USD (-0.8% so với tháng trước) và 308 triệu USD (-4.7% so với tháng trước) trong tháng 10.
- Thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ (chiếm 36% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam), Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều ghi nhận mức sụt giảm lớn, chỉ có duy nhất EU là ghi nhận mức tăng. Việc các thị trường đều ghi nhận mức sụt giảm giá trị xuất khẩu các mặt hàng dệt may đến từ tình hình lạm phát tại các quốc gia phát triển này đang ở mức cao. Bên cạnh đó là hàng tồn kho vẫn đang duy trì ở mức cao khiến cho nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng may mặc đã bị sụt giảm mạnh bắt đầu từ tháng 9/2022 và tiếp tục kéo dài đến tháng 10, dự kiến tình hình này vẫn sẽ tiếp tục xấu cho đến hết năm 2022 và có thể đến Q1/2023.
- Đối với mặt hàng xơ sợi của Việt Nam, thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc (chiếm đến 45% tổng giá trị xuất khẩu xơ sợi của Việt Nam), bên cạnh đó là các thị trường khác chiếm tỷ trọng nhỏ hơn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc đều ghi nhận mức sụt giảm so với tháng trước đó. Việc Trung Quốc vẫn duy trì chính sách Zero Covid đã khiến cho nhu cầu xơ sợi sụt giảm mạnh, cùng với đó là hạn chế trong chuỗi cung ứng sẽ khiến tình hình mặt hàng này sẽ vẫn tiếp tục khó khăn, tuy nhiên điểm sáng ở đây là quốc gia này cũng đang dần nới lỏng các biện pháp phòng dịch của mình, kỳ vọng rằng điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu xơ sợi trong thời gian tới.
=> Đừng bỏ lỡ khóa học chứng khoán miễn phí Let’s Investing K9 - Bứt phá năm 2023 với những cơ hội tiềm năng do chính bạn tự tay nắm bắt. Link đăng ký tại: https://takeprofit.vn/khoa-hoc-lets-investing
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu đều nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài và xuất khẩu hàng may mặc. Trong bối cảnh tỷ giá tăng cao và biến động mạnh như hiện nay, lãi lỗ từ tỷ giá nhìn chung là biến động tùy vào cơ cấu xuất nhập khẩu của từng doanh nghiệp cũng như tỷ lệ nợ vay nước ngoài.
- Doanh thu tháng 10/2022 đến từ 3 mảng chính trong đó sản phẩm may chiếm 76%, vải chiếm 15% và sợi chiếm 7% tổng doanh thu.
- TCM xuất khẩu hàng dệt may đi nhiều nước lớn trên thế giới. Xuất khẩu tháng 10 sang Châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất 57% trong đó Hàn Quốc chiếm 24.28%, Nhật chiếm 18.19%. Tiếp đến là Châu Mỹ chiếm 40% trong đó Mỹ chiếm 35.32% và cuối cùng là Châu Âu chiếm 3%. Mặc dù tình hình xuất khẩu trong những tháng gần đây bị ảnh hưởng chung của thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ và Châu Âu, nhưng nhờ vào sự đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào (TCM tự chủ được 80% nguồn nguyên liệu sản xuất) đã giúp TCM bị ảnh hưởng nhẹ hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành khác.
- Ngoài ra, vào tháng 4/2022 nhà máy Vĩnh Long giai đoạn 2 với tổng công suất 9 triệu sản phẩm/năm đã bắt đầu đưa vào hoạt động 5/29 chuyền may đầu tiên. Tuy nhiên do thiếu hụt đơn hàng nên đến tháng 10/2022 TCM mới vận hành được 9/29 chuyền may và dự kiến sẽ tiếp tục duy trì đến cuối năm.
- Bên cạnh đó là mảng bất động sản của TCM vẫn chưa đi vào đầu tư xây dựng khi vẫn chưa xin được giấy phép xây dựng TC1. Do đó sẽ cần thêm thời gian, theo ban lãnh đạo dự kiến đến Q1/2023 sẽ đi vào triển khai, dự kiến công ty sẽ đi vay 60-70% trên tổng nguồn vốn để hỗ trợ cho dự án.
Doanh thu tiêu thụ của TNG đang trong xu hướng giảm khi đạt đỉnh vào hồi tháng 7/2022. Nguyên nhân là do các đơn hàng của công ty đang ngày càng ít đi. Được biết là cơ cấu doanh thu của TNG có đến 97% là xuất khẩu và chỉ 3% và nội địa, trong các thị trường xuất khẩu thì Mỹ và Châu Âu chiếm đến hơn 80% tổng cơ cấu xuất khẩu của doanh nghiệp, do đó TNG đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ lạm phát và suy thoái tại các quốc gia này khiến doanh thu bị sụt giảm mạnh và trong thời gian tới cũng vẫn sẽ gặp khó khăn lớn.
Bên cạnh đó, mảng Khu công nghiệp với khu công nghiệp Sơn Cẩm 1 sẽ được sử dụng để di chuyển 2 nhà máy là Việt Đức và Việt Thái. Một nửa còn lại sẽ được chuyển nhượng với mức giá cạnh tranh hơn so với các khu công nghiệp lân cận như VSIP là khoảng 3-3.5 USD/m2/tháng. Hiện nay, TNG đã ký ghi nhớ đặt cọc trước cho khoảng 6ha, dự kiến lô đất này sẽ được bán đứt trong năm nay và thu về 138 tỷ với lợi nhuận khoảng 25 tỷ đồng.
Ngoài ra TNG cũng đang nghiên cứu để mở rộng chuỗi giá trị sang các đơn hàng ODM, với biên lợi nhuận cao hơn 3-4 lần so với FOB (hiện tại 80% đơn hàng của TNG là FOB). Hiện nay công ty đang thử nghiệm và nếu thành công, TNG sẽ tăng tỷ trọng của ODM trong tương lai và biên lợi nhuận sẽ được cải thiện đáng kể.
Kết quả kinh doanh của công ty trong Q3/2022 ghi nhận mức doanh thu thuần đạt 515 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ 2021 và giảm nhẹ so với Q2/2022. Tuy nhiên lợi nhuận giảm tương đối so với cùng kỳ và quý trước đó, biên lợi nhuận cũng ghi nhận sự sụt giảm. Nguyên nhân là do hàng tồn kho cao của các khách hàng trong chuỗi giá trị nên lượng đơn hàng giảm. Ban lãnh đạo dự kiến nhu cầu về sợi nguyên sinh vẫn sẽ yếu, trong khi nhu cầu về sợi tái chế sẽ ổn định hơn trong Q4/2022 (đây là sản phẩm chủ lực của STK).
Ngoài ra, hiện tại STK có 2 nhà máy đặt tại Củ Chi (TP.HCM) và Tràng Bảng (Tây Ninh) với tổng công suất thiết kế là 63,300 tấn sợi/năm, những nhà máy này có hệ thống máy móc sản xuất được cả sợi nguyên sinh và sợi tái chế.
Công ty đang triển khai xây dựng nhà máy sợi tổng hợp Unitex. Dự án này có thể mở rộng năng lực sản xuất của STK thêm 60% công suất khi đi vào hoạt động, dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động trong cuối năm 2023.
=> Xem thêm: Chứng khoán hôm nay | Thị trường bao trùm trong sắc đỏ - Tâm lý bi quan trước nghỉ tết
Năm 2022, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam cán đích với 44 tỷ USD, tăng 8,8% so với năm trước. Tuy nhiên, bước sang năm 2023, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, như: đơn hàng sụt giảm, lãi suất tăng cao và chênh lệch tỷ giá…
Ngành dệt may của Việt Nam cũng là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực và giữ vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Năm 2022, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam cán đích với 44 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước [4]. Tuy nhiên, bước sang năm 2023, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, như: đơn hàng sụt giảm, lãi suất tăng cao và chênh lệch tỷ giá… Thời gian tới, để ngành dệt may phát triển ổn định và bền vững, cần có nhiều giải pháp đồng bộ.
Từ khóa: ngành dệt may, phát triển, Việt Nam
Textile and garment industry is among the key export industries and plays an important role in the overall economic growth of Vietnam. In 2022, in spite of facing many difficulties, Vietnam’s textile and garment exports reached 44 billion USD, up 8.8% over the same period last year [4]. However, entering 2023, Vietnam’s textile and garment industry has been facing many challenges due to the impacts of global and domestic economic changes, including the declining number of new orders, high interest rates, and exchange rate differences, etc. Therefore, it is necessary to implement synchronous solutions to help the textile and garment industry stabilize and develop sustainably in the coming time.
Keywords: textile industry, development, Vietnam
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Nhìn tổng thể tình hình xuất khẩu ngành dệt may trong những năm gần đây thấy rằng, tăng trưởng trong xuất khẩu ngành dệt may của Việt Nam biến động theo xu hướng xuất khẩu chung của cả nước. Năm 2022, ngành dệt may chịu nhiều áp lực lớn. Xuất khẩu dệt may tăng trưởng tương đối tốt trong nửa đầu năm 2022, tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm 2022, các thị trường chính của dệt may Việt Nam rơi vào lạm phát, sức mua suy giảm mạnh, đến quý IV/2022, đơn hàng đã giảm đến 30%, có doanh nghiệp giảm đến 70% đơn hàng ở thị trường châu Âu, do lạm phát cao làm giảm chi tiêu của người dân, trong đó may mặc là mặt hàng bị cắt giảm chi tiêu nhiều. Bên cạnh đó, bất lợi về tỷ giá với các đối thủ cạnh tranh, tình trạng thiếu lao động sau đại dịch Covid-19, yêu cầu truy soát nguồn gốc bông, vải, sợi, hay xanh hóa dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng là những thách thức mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối mặt. Ngoài ra, các thị trường là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)… vẫn trong năm 2022 áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt chống Covid-19, ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Mặc dù khó khăn, nhưng theo Báo cáo của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), với những biến động phức tạp của nền kinh tế thế giới, Vinatex vẫn đạt các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh, với doanh thu hợp nhất ước đạt 19.535 tỷ đồng, đạt 108% kế hoạch tăng 15% cùng kỳ. Lợi nhuận hợp nhất ước đạt 1.090 tỷ đồng, đạt 115% kế hoạch, tương đương 75% năm 2021. Kết quả sản xuất, kinh doanh Công ty mẹ với doanh thu ước đạt 2.158 tỷ đồng, đạt 123% kế hoạch, tăng 32% cùng kỳ. Lợi nhuận ước đạt 336 tỷ đồng, đạt 101% kế hoạch, tăng 8% so với năm 2021. Trong đó, thị trường xuất khẩu trọng tâm Hoa Kỳ với 13,9 tỷ USD, các nước trong khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) 4,733 tỷ USD, các nước EU là 3,63 tỷ USD, Hàn Quốc là 2,525 tỷ USD, Trung Quốc là 925 triệu USD. Quần áo may mặc các loại vẫn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tới 29,1 tỷ USD. Ngoài quần áo, ngành dệt may Việt Nam cũng xuất khẩu vải với 2,13 tỷ USD, xơ sợi 4,083 tỷ USD, phụ liệu may 1,165 tỷ USD, vải địa 747 triệu USD.
Cho đến nay, ngành dệt may đã xuất khẩu sản phẩm đến 66 nước, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là sự bứt phá của Ngành trong phát triển thị trường. Bên cạnh đó, số mặt hàng duy trì xuất khẩu khoảng 47-50 mặt hàng khác nhau vào thị trường toàn cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu là quần áo may mặc các loại. Đặc biệt, đối với thị trường EU, nếu như trước đây dệt may Việt Nam chỉ tập trung vào một số nước lớn, như: Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, thì nay đã xuất khẩu vào 26/27 quốc gia ở EU.
Năm 2022, ngành dệt may Việt Nam đã có 10 thương hiệu đạt thương hiệu quốc gia Việt Nam, bao gồm: sản phẩm thời trang Viettien (Tổng Công ty May Việt Tiến), thương hiệu Merriman (Tổng Công ty Cổ phần Dệt may Hòa Thọ), thương hiệu Mattana & Novelty (Tổng Công ty May Nhà Bè), trang phục An Phước (Công ty TNHH May thêu giày An Phước), May10 Series, May10 Suits & Eternity GrusZ (Tổng Công ty May 10), thời trang Thái Tuấn (Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn), khăn bông Mollis (Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú). Mục tiêu từ nay tới năm 2025, Việt Nam sẽ có 20 thương hiệu thời trang không chỉ trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới.
Có được kết quả trên là do ngành dệt may Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để có thể bắt kịp với xu hướng thế giới. Trong đó, nổi bật nhất là các doanh nghiệp đã chủ động nâng cao năng lực sản xuất; nâng cao trình độ tay nghề; chuyển hướng sản xuất từ hình thức chỉ nhận gia công sang hình thức tự chủ nguồn nguyên liệu, tự thiết kế và hoàn thành sản phẩm; đặc biệt, việc các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào thiết bị, công nghệ tự động hóa cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nền tảng để ngành dệt may chống chịu được những áp lực của thị trường về chất lượng, điều kiện giao hàng nhanh…
Ngoài ra, Nhà nước đã hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong việc tổ chức các cuộc hội thảo, xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu; Nhà nước cũng hỗ trợ trong việc thu hút vốn đầu tư vào ngành dệt may…
Mặc dù đạt được một số kết quả, nhưng ngành dệt may Việt Nam còn có những hạn chế, đó là:
Thứ nhất, hiện nay, tình trạng yêu cầu truy xuất nguồn gốc bông, vải, sợi hay "xanh hóa" dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là những thách thức mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải giải quyết để có thể hưởng ưu đãi từ các hiệp định này.
Thứ hai, ngành dệt may gặp các khó khăn trong ngắn hạn về thu hẹp thị trường, sụt giảm đơn hàng và đơn giá, khó khăn nội tại về nguồn vốn, chi phí đầu vào, logistics, nguồn lao động...
Thứ ba, hiện nay, ngành đang đứng trước các thách thức lớn về yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ mô hình sản xuất theo hướng bền vững, xanh, tuần hoàn và đáp ứng các quy định mới liên quan đến lao động, nguồn gốc xuất xứ, khả năng tái chế của sản phẩm từ các thị trường chủ chốt, như: Mỹ, EU.
Thứ tư, công nghiệp hỗ trợ trong ngành may mặc chưa phát triển mạnh, chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, dẫn đến có sự khan hiếm nguồn nguyên liệu trong nước, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu và khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ.
Thứ năm, dệt may của Việt Nam cũng đang gặp phải cạnh tranh lớn từ một số nước đang phát triển hiện đang đẩy mạnh sản xuất trong bối cảnh phục hồi kinh tế và thực hiện hiệu quả chiến lược “xanh hóa” các nhà máy sản xuất.
Thứ sáu, thực trạng thiếu thông tin về thị trường, về nguồn cung nguyên liệu là một trong những lý do khiến doanh nghiệp ngành dệt may khó dịch chuyển lên phương thức sản xuất cao hơn là thiếu thông tin về khách hàng, về các nhà cung cấp và thị trường nguyên phụ liệu, thiếu đội ngũ cán bộ mua hàng am hiểu thị trường và có năng lực quản lý chuỗi giá trị.
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH DỆT MAY TRONG THỜI GIAN TỚI
Một là, để ổn định sản xuất, hướng tới mục tiêu bền vững trong thời gian tới, bản thân các doanh nghiệp cần bắt kịp xu thế thị trường, đầu tư máy móc công nghệ, chuyển đổi xanh thích ứng với các yêu cầu của nhãn hàng, tăng cường giải pháp xây dựng đào tạo nguồn lực thích ứng với tình hình khó khăn của thị trường, đặc biệt chú trọng tới nguồn nhân lực thiết kế cho ngành công nghiệp thời trang.
Doanh nghiệp cần đẩy mạnh chuyển đổi từ gia công sang phát triển mẫu, quản trị số, thúc đẩy giải pháp chuỗi cung ứng tự chủ… Thị trường dệt may toàn cầu, theo tất cả các kịch bản, đều có tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn nhiều những năm qua. Do đó, ngành dệt may cần tập trung vào các giải pháp hình thành chuỗi sản xuất dệt kim trọn gói, phát triển sản xuất xanh, thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng, cơ cấu lại sản phẩm để duy trì sản xuất...
Hai là, các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện hình thành các khu công nghiệp lớn có xử lý nước thải tập trung, có công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh để thu hút đầu tư khâu dệt nhuộm giải quyết điểm nghẽn về vải cung cấp cho may xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu xuất xứ để ưu đãi thuế từ các hiệp định thương mại tự do. Thúc đẩy đầu tư sản xuất nguyên, phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, da giầy; chú trọng đến sản xuất vải, vải nhân tạo, da thuộc, khuyến khích sản xuất vải từ sợi sản xuất trong nước nhằm giảm nhập khẩu, tác động tích cực đến mối liên kết, hình thành chuỗi giá trị và cung ứng hoàn chỉnh trong ngành dệt may, đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cũng như đẩy mạnh quá trình nội địa hóa, cải thiện và giảm nhanh khoảng cách chênh lệch về trình độ và năng suất với các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn.
Ba là, các doanh nghiệp may, cần linh hoạt cơ cấu chuyển đổi mặt hàng để đảm bảo đơn hàng đáp ứng nhu cầu thị trường. Cùng với đó, tập trung vào các ngành mang lại giá trị gia tăng cao, cũng như phấn đấu giữ được tốc độ tăng trưởng doanh thu từ 4%-6% trong bối cảnh thế giới giảm khoảng 10% nhu cầu tiêu dùng. Tập trung vào các giải pháp hình thành chuỗi sản xuất dệt kim trọn gói, phát triển sản xuất xanh, thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng.
Bốn là, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư công nghệ mới, tiết kiệm năng lượng, giảm sử dụng hóa chất, giảm phát thải; sử dụng tối đa năng lượng tái tạo; đẩy mạnh sản xuất sản phẩm tái chế, sử dụng nguồn nguyên liệu xanh, sạch; cập nhật để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội. Thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, trong đó ưu tiên chuyển đổi số cho hoạt động cốt lõi, trên cơ sở nguồn lực hợp lý. Các doanh nghiệp cần bắt kịp xu thế thị trường, chuyển đổi xanh thích ứng với các yêu cầu của nhãn hàng, tăng cường giải pháp xây dựng, đào tạo nguồn lực thích ứng với tình hình khó khăn của thị trường, đặc biệt chú trọng tới nguồn nhân lực thiết kế cho ngành công nghiệp thời trang để từng bước tiến tới làm hàng FOB (mua vật liệu, sản xuất, bán sản phẩm) và ODM (thiết kế, sản xuất, bán sản phẩm)...
Năm là, giai đoạn 2023-2025, dự báo kinh tế thế giới vẫn còn có nhiều bất ổn, ngành dệt may cần có hướng đi mới, giảm phụ thuộc vào thị trường quốc tế, tự chủ nguồn cung nguyên phụ liệu, chuyển dần trọng tâm sang khai thác thị trường nội địa. Với quy mô dân số gần 100 triệu người, Việt Nam là thị trường tiêu thụ dệt may tiềm năng cho các doanh nghiệp. Để đạt các mục tiêu đặt ra trong năm 2023, trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ và các bộ, ngành cần có các chính sách giảm, hoãn thuế cho doanh nghiệp, tiếp tục tìm các nguồn tài chính cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp để duy trì sản xuất, giữ ổn định lao động. Đồng thời, với một số lĩnh vực ngành hàng có xuất khẩu lớn như dệt may, nên điều chỉnh lãi suất hợp lý để khuyến khích doanh nghiệp duy trì hoạt động, giữ ổn định lao động.
Sáu là, ngành dệt may cần chủ động tận dụng các hiệp định thương mại tự do năm 2023 có hiệu lực. Cụ thể, với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), 100% hàng dệt may của Việt Nam sẽ được giảm thuế nhập khẩu về 0% sau tối đa 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, đối với dệt may, EU sẽ xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sau 5 năm và 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau 7 năm. Đây được coi là cơ hội vàng cho ngành may mặc Việt Nam khi vào thị trường 27 nước thành viên EU.
Bảy là, thời gian tới, cần hướng các dự án công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên, phụ liệu tập trung phát triển ở khu vực có mật độ cao các doanh nghiệp dệt may, da giầy tại một số địa phương phía Bắc (Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh...), khu vực miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định...) và phía Nam (Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Long An...), để giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm…/.
Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo Số 08-Tháng 3/2023)
1. Chính phủ (2022), Quyết định số 1643/QĐ-TTg, ngày 29/12/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035.
2. Hà Anh (2022), Xuất khẩu dệt may vượt khó về đích, truy cập từ https://nhandan.vn/xuat-khau-det-may-vuot-kho-ve-dich-post730260.html.
3. Nguyễn Vân (2022). Xuất khẩu dệt may làm gì để giữ đà tăng trưởng trong năm 2023, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/xuat-khau-det-may-lam-gi-de-giu-da-tang-truong-trong-nam-2023-119379.html.
4. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (2022), Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2022, một số nhiệm vụ năm 2023.
Thực trạng phát triển ngành Dệt may Việt Nam
Nhìn tổng thể tình hình xuất khẩu ngành Dệt may trong những năm gần đây thấy rằng, tăng trưởng trong xuất khẩu ngành Dệt may của Việt Nam biến động theo xu hướng xuất khẩu chung của cả nước. Năm 2022, ngành dệt may chịu nhiều áp lực lớn. Xuất khẩu dệt may tăng trưởng tương đối tốt trong nửa đầu năm 2022, tuy nhiên, trong 6 tháng cuối năm 2022, các thị trường chính của dệt may Việt Nam rơi vào lạm phát, sức mua suy giảm mạnh, đến quý IV/2022, đơn hàng đã giảm đến 30%, có doanh nghiệp giảm đến 70% đơn hàng ở thị trường châu Âu, do lạm phát cao làm giảm chi tiêu của người dân, trong đó may mặc là mặt hàng bị cắt giảm chi tiêu nhiều.
Bên cạnh đó, bất lợi về tỷ giá với các đối thủ cạnh tranh, tình trạng thiếu lao động sau đại dịch COVID-19, yêu cầu truy soát nguồn gốc bông, vải, sợi, hay xanh hóa dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng là những thách thức mà doanh nghiệp Dệt may Việt Nam phải đối mặt. Ngoài ra, các thị trường là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)… vẫn trong năm 2022 áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt chống COVID-19, ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Mặc dù khó khăn, nhưng theo Báo cáo của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), với những biến động phức tạp của nền kinh tế thế giới, Vinatex vẫn đạt các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh, với doanh thu hợp nhất ước đạt 19.535 tỷ đồng, đạt 108% kế hoạch tăng 15% cùng kỳ. Lợi nhuận hợp nhất ước đạt 1.090 tỷ đồng, đạt 115% kế hoạch, tương đương 75% năm 2021.
Kết quả sản xuất, kinh doanh Công ty mẹ với doanh thu ước đạt 2.158 tỷ đồng, đạt 123% kế hoạch, tăng 32% cùng kỳ. Lợi nhuận ước đạt 336 tỷ đồng, đạt 101% kế hoạch, tăng 8% so với năm 2021. Trong đó, thị trường xuất khẩu trọng tâm Hoa Kỳ với 13,9 tỷ USD, các nước trong khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) 4,733 tỷ USD, các nước EU là 3,63 tỷ USD, Hàn Quốc là 2,525 tỷ USD, Trung Quốc là 925 triệu USD. Quần áo may mặc các loại vẫn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tới 29,1 tỷ USD. Ngoài quần áo, ngành Dệt may Việt Nam cũng xuất khẩu vải với 2,13 tỷ USD, xơ sợi 4,083 tỷ USD, phụ liệu may 1,165 tỷ USD, vải địa 747 triệu USD.
Cho đến nay, ngành Dệt may đã xuất khẩu sản phẩm đến 66 nước, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là sự bứt phá của Ngành trong phát triển thị trường. Bên cạnh đó, số mặt hàng duy trì xuất khẩu khoảng 47-50 mặt hàng khác nhau vào thị trường toàn cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu là quần áo may mặc các loại. Đặc biệt, đối với thị trường EU, nếu như trước đây dệt may Việt Nam chỉ tập trung vào một số nước lớn, như: Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, thì nay đã xuất khẩu vào 26/27 quốc gia ở EU.
Năm 2022, ngành Dệt may Việt Nam đã có 10 thương hiệu đạt thương hiệu quốc gia Việt Nam, bao gồm: sản phẩm thời trang Viettien (Tổng Công ty May Việt Tiến), thương hiệu Merriman (Tổng Công ty Cổ phần Dệt may Hòa Thọ), thương hiệu Mattana & Novelty (Tổng Công ty May Nhà Bè), trang phục An Phước (Công ty TNHH May thêu giày An Phước), May10 Series, May10 Suits & Eternity GrusZ (Tổng Công ty May 10), thời trang Thái Tuấn (Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn), khăn bông Mollis (Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú). Mục tiêu từ nay tới năm 2025, Việt Nam sẽ có 20 thương hiệu thời trang không chỉ trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới.
Có được kết quả trên là do ngành Dệt may Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để có thể bắt kịp với xu hướng thế giới. Trong đó, nổi bật nhất là các doanh nghiệp đã chủ động nâng cao năng lực sản xuất; nâng cao trình độ tay nghề; chuyển hướng sản xuất từ hình thức chỉ nhận gia công sang hình thức tự chủ nguồn nguyên liệu, tự thiết kế và hoàn thành sản phẩm; đặc biệt, việc các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào thiết bị, công nghệ tự động hóa cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nền tảng để ngành dệt may chống chịu được những áp lực của thị trường về chất lượng, điều kiện giao hàng nhanh…
Ngoài ra, Nhà nước đã hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt may trong việc tổ chức các cuộc hội thảo, xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu; Nhà nước cũng hỗ trợ trong việc thu hút vốn đầu tư vào ngành Dệt may…
Mặc dù đạt được một số kết quả, nhưng ngành Dệt may Việt Nam còn có những hạn chế, đó là:
Thứ nhất, hiện nay, tình trạng yêu cầu truy xuất nguồn gốc bông, vải, sợi hay "xanh hóa" dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là những thách thức mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải giải quyết để có thể hưởng ưu đãi từ các hiệp định này.
Thứ hai, ngành dệt may gặp các khó khăn trong ngắn hạn về thu hẹp thị trường, sụt giảm đơn hàng và đơn giá, khó khăn nội tại về nguồn vốn, chi phí đầu vào, logistics, nguồn lao động...
Thứ ba, hiện nay, ngành đang đứng trước các thách thức lớn về yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ mô hình sản xuất theo hướng bền vững, xanh, tuần hoàn và đáp ứng các quy định mới liên quan đến lao động, nguồn gốc xuất xứ, khả năng tái chế của sản phẩm từ các thị trường chủ chốt, như: Mỹ, EU.
Thứ tư, công nghiệp hỗ trợ trong ngành may mặc chưa phát triển mạnh, chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, dẫn đến có sự khan hiếm nguồn nguyên liệu trong nước, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu và khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ.
Thứ năm, dệt may của Việt Nam cũng đang gặp phải cạnh tranh lớn từ một số nước đang phát triển hiện đang đẩy mạnh sản xuất trong bối cảnh phục hồi kinh tế và thực hiện hiệu quả chiến lược “xanh hóa” các nhà máy sản xuất.
Thứ sáu, thực trạng thiếu thông tin về thị trường, về nguồn cung nguyên liệu là một trong những lý do khiến doanh nghiệp ngành dệt may khó dịch chuyển lên phương thức sản xuất cao hơn là thiếu thông tin về khách hàng, về các nhà cung cấp và thị trường nguyên phụ liệu, thiếu đội ngũ cán bộ mua hàng am hiểu thị trường và có năng lực quản lý chuỗi giá trị.
Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của ngành Dệt may trong thời gian tới
Một là, để ổn định sản xuất, hướng tới mục tiêu bền vững trong thời gian tới, bản thân các doanh nghiệp cần bắt kịp xu thế thị trường, đầu tư máy móc công nghệ, chuyển đổi xanh thích ứng với các yêu cầu của nhãn hàng, tăng cường giải pháp xây dựng đào tạo nguồn lực thích ứng với tình hình khó khăn của thị trường, đặc biệt chú trọng tới nguồn nhân lực thiết kế cho ngành công nghiệp thời trang.
Doanh nghiệp cần đẩy mạnh chuyển đổi từ gia công sang phát triển mẫu, quản trị số, thúc đẩy giải pháp chuỗi cung ứng tự chủ… Thị trường dệt may toàn cầu, theo tất cả các kịch bản, đều có tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn nhiều những năm qua. Do đó, ngành dệt may cần tập trung vào các giải pháp hình thành chuỗi sản xuất dệt kim trọn gói, phát triển sản xuất xanh, thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng, cơ cấu lại sản phẩm để duy trì sản xuất...
Hai là, các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện hình thành các khu công nghiệp lớn có xử lý nước thải tập trung, có công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh để thu hút đầu tư khâu dệt nhuộm giải quyết điểm nghẽn về vải cung cấp cho may xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu xuất xứ để ưu đãi thuế từ các hiệp định thương mại tự do. Thúc đẩy đầu tư sản xuất nguyên, phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ ngành Dệt may, da giầy; chú trọng đến sản xuất vải, vải nhân tạo, da thuộc, khuyến khích sản xuất vải từ sợi sản xuất trong nước nhằm giảm nhập khẩu, tác động tích cực đến mối liên kết, hình thành chuỗi giá trị và cung ứng hoàn chỉnh trong ngành dệt may, đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cũng như đẩy mạnh quá trình nội địa hóa, cải thiện và giảm nhanh khoảng cách chênh lệch về trình độ và năng suất với các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn.
Ba là, các doanh nghiệp may, cần linh hoạt cơ cấu chuyển đổi mặt hàng để đảm bảo đơn hàng đáp ứng nhu cầu thị trường. Cùng với đó, tập trung vào các ngành mang lại giá trị gia tăng cao, cũng như phấn đấu giữ được tốc độ tăng trưởng doanh thu từ 4%-6% trong bối cảnh thế giới giảm khoảng 10% nhu cầu tiêu dùng. Tập trung vào các giải pháp hình thành chuỗi sản xuất dệt kim trọn gói, phát triển sản xuất xanh, thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng.
Bốn là, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư công nghệ mới, tiết kiệm năng lượng, giảm sử dụng hóa chất, giảm phát thải; sử dụng tối đa năng lượng tái tạo; đẩy mạnh sản xuất sản phẩm tái chế, sử dụng nguồn nguyên liệu xanh, sạch; cập nhật để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường và trách nhiệm xã hội. Thực hiện thành công công tác chuyển đổi số, trong đó ưu tiên chuyển đổi số cho hoạt động cốt lõi, trên cơ sở nguồn lực hợp lý. Các doanh nghiệp cần bắt kịp xu thế thị trường, chuyển đổi xanh thích ứng với các yêu cầu của nhãn hàng, tăng cường giải pháp xây dựng, đào tạo nguồn lực thích ứng với tình hình khó khăn của thị trường, đặc biệt chú trọng tới nguồn nhân lực thiết kế cho ngành công nghiệp thời trang để từng bước tiến tới làm hàng FOB (mua vật liệu, sản xuất, bán sản phẩm) và ODM (thiết kế, sản xuất, bán sản phẩm)...
Năm là, giai đoạn 2023-2025, dự báo kinh tế thế giới vẫn còn có nhiều bất ổn, ngành Dệt may cần có hướng đi mới, giảm phụ thuộc vào thị trường quốc tế, tự chủ nguồn cung nguyên phụ liệu, chuyển dần trọng tâm sang khai thác thị trường nội địa. Với quy mô dân số gần 100 triệu người, Việt Nam là thị trường tiêu thụ dệt may tiềm năng cho các doanh nghiệp. Để đạt các mục tiêu đặt ra trong năm 2023, trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ và các bộ, ngành cần có các chính sách giảm, hoãn thuế cho doanh nghiệp, tiếp tục tìm các nguồn tài chính cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp để duy trì sản xuất, giữ ổn định lao động. Đồng thời, với một số lĩnh vực ngành hàng có xuất khẩu lớn như dệt may, nên điều chỉnh lãi suất hợp lý để khuyến khích doanh nghiệp duy trì hoạt động, giữ ổn định lao động.
Sáu là, ngành Dệt may cần chủ động tận dụng các hiệp định thương mại tự do năm 2023 có hiệu lực. Cụ thể, với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), 100% hàng dệt may của Việt Nam sẽ được giảm thuế nhập khẩu về 0% sau tối đa 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, đối với dệt may, EU sẽ xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sau 5 năm và 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau 7 năm. Đây được coi là cơ hội vàng cho ngành may mặc Việt Nam khi vào thị trường 27 nước thành viên EU.
Bảy là, thời gian tới, cần hướng các dự án công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên, phụ liệu tập trung phát triển ở khu vực có mật độ cao các doanh nghiệp dệt may, da giầy tại một số địa phương phía Bắc (Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh...), khu vực miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định...) và phía Nam (Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Long An...), để giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm…
1. Chính phủ (2022), Quyết định số 1643/QĐ-TTg, ngày 29/12/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành dệt may và da giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035;
2. Hà Anh (2022), Xuất khẩu dệt may vượt khó về đích, truy cập từ https://nhandan.vn/xuat-khau-det-may-vuot-kho-ve-dich-post730260.html;
3. Nguyễn Vân (2022), Xuất khẩu dệt may làm gì để giữ đà tăng trưởng trong năm 2023, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/xuat-khau-det-may-lam-gi-de-giu-da-tang-truong-trong-nam-2023-119379.html;
4. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (2022), Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2022, một số nhiệm vụ năm 2023.
Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 08 tháng 3/2023