Hoàng Kim Phượng – Cũng giống như ở Việt Nam với một số ít tên tuổi luật sư được nhắc đến thường xuyên trên báo chí, ở Mỹ, trong các vụ án lớn hay các vụ xì-căng-đan (scandal) gây chú ý của báo giới và dư luận, luôn chỉ có vài cái tên luật sư được đề cập nổi bật. Dưới đây là danh sách 10 “luật sư ngôi sao” như vậy. Điểm chung ở họ là, họ là các luật sư bào chữa tài ba, chuyên cãi cho những nhân vật nổi tiếng. Họ là 10 vị luật sư bào chữa nổi tiếng nhất nước Mỹ, ở một chừng mực nào đó là cả trên phạm vi quốc tế, bởi lẽ khách hàng của họ là những nhân vật có tiếng tăm của thế giới.
Hoàng Kim Phượng – Cũng giống như ở Việt Nam với một số ít tên tuổi luật sư được nhắc đến thường xuyên trên báo chí, ở Mỹ, trong các vụ án lớn hay các vụ xì-căng-đan (scandal) gây chú ý của báo giới và dư luận, luôn chỉ có vài cái tên luật sư được đề cập nổi bật. Dưới đây là danh sách 10 “luật sư ngôi sao” như vậy. Điểm chung ở họ là, họ là các luật sư bào chữa tài ba, chuyên cãi cho những nhân vật nổi tiếng. Họ là 10 vị luật sư bào chữa nổi tiếng nhất nước Mỹ, ở một chừng mực nào đó là cả trên phạm vi quốc tế, bởi lẽ khách hàng của họ là những nhân vật có tiếng tăm của thế giới.
Lịch sử Nước Úc đã có rất nhiều thay đổi kể từ khi những cư dân nguyên thủy, tức là Thổ Dân Úc, sống trong các hệ thống xã hội phức tạp với những tập tục truyền thống phản ảnh mối liên hệ mật thiết với đất đai và môi trường.
Từ thời gian nguyên thủy xa xôi đó cho đến lúc những nhà thám hiểm Châu Âu da trắng đầu tiên, những kẻ tội phạm và những di dân tự do đầu tiên đặt chân đến Úc, và gần hơn nữa là những đợt di dân từ khắp nơi trên thế giới, nước Úc đã vươn lên tồn tại, vượt qua những đợt khủng hoảng kinh tế, những cuộc chiến tranh cùng những vụ xì-căng-đan chính trị.
Từ đó tạo dựng những thành phố năng động và những huyền thoại của “rừng hoang” và “Aussie battler” (tạm dịch “chiến sĩ tranh đấu Úc”), tạo một xuất phát điểm thuận lợi cho mọi cư dân đến từ khắp nơi trên thế giới, và chứng kiến quá trình suy thoái và từ từ phục hồi phát triển của nền văn hóa Bản Địa.
Cư dân nguyên thủy ở Úc, thường được gọi là Thổ Dân Úc hay Người Bản Địa Úc, có nền văn hóa tiếp nối lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Kỷ Băng Hà. Mặc dù truyền thuyết và tranh luận đã khiến nhiều lãnh vực của thời tiền sử Úc trở nên mơ hồ nhưng nói chung người ta vẫn chấp nhận một điều là tổ tiên của Người Thổ Dân có nguồn gốc từ Indonesia và họ đã vượt biển tới đây từ khoảng 70.000 năm trước.
Người Âu Châu bắt đầu thám hiểm Úc Châu vào thế kỷ 16. Thoạt tiên là các nhà hàng hải Bồ Đào Nha và sau đó là các nhà thám hiểm Hà Lan và tên hải tặc bạo gan người Anh William Dampier. Vào năm 1770, thuyền trưởng James Cook đã lái thuyền đi dọc toàn bộ bờ biển phía đông Úc Châu và đã ghé vào vịnh Botany Bay. Ngay sau đó thuyền trưởng Cook tuyên bố vùng lục địa này thuộc chủ quyền của Anh Quốc và đặt tên là New South Wales.
Đến năm 1779, Joseph Banks (một nhà tự nhiên học trên chuyến du hành của James Cook) đưa ra ý kiến là Anh Quốc có thể giải quyết vấn đề quá tải của nhà tù bằng cách chuyển bớt tù nhân đến New South Wales. Năm 1787, đoàn thuyền đầu tiên với 11 chiếc tàu chở 750 tù nhân nam nữ đã khởi hành tới New South Wales và đã đến Úc ngày 26 tháng Giêng năm 1788 nhưng sau đó đoàn thuyền đã đi lên mạn bắc đến Sydney Cove nơi điều kiện đất đai và nước uống thuận tiện hơn.
Đối với những người mới đặt chân đến Úc, New South Wales là nơi khắc nghiệt và khủng khiếp, đó là chưa kể đến tình trạng thuộc địa mới này bị đe dọa thiếu thốn thực phẩm trong nhiều năm trời. Để chống chịu với cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên và một chính quyền áp bức, những cư dân Úc mới đã xây dựng và phát triển một nền văn hóa và chính nền văn hóa này đã trở thành nền tảng của huyền thoại “Aussie battler”.
Trong mấy thập niên sau đó, Úc Châu trở thành nơi hấp dẫn những người định cư tự do. Nhưng chỉ đến những năm của thập niên 1850, chính việc khám phá vàng mới thực sự thay đổi vĩnh viễn thuộc địa này. Các làn sóng di dân khổng lồ đã tràn đến Úc và việc khám phá một số mỏ vàng lớn đã góp phần đẩy mạnh nền kinh tế cũng như thay đổi cơ cấu xã hội thuộc địa của Úc. Những thành phần mới đến định cư đã tàn nhẫn xua đuổi người Thổ Dân và chiếm đoạt đất đai của họ để cấy cày hoặc khai thác mỏ.
Đến cuối thế kỷ 19, rất nhiều người đã có khuynh hướng lý tưởng hóa “vùng rừng rậm” – “the bush” (tức là bất kỳ nơi nào ở cách xa thành phố) và con người sinh sống ớ đấy. Một diễn đàn lớn về “chủ nghĩa quốc gia vùng rừng rậm” (bush nationalism) chính là tạp chí Bulletin khá phổ biến. Nội dung của tạp chí này chứa đầy những hình ảnh hài hước và tình cảm về cuộc sống đời thường. Hai ngòi bút nổi tiếng nhất của tạp chí Bulletin chính là hai huyền thoại Henry Lawson và ‘Banjo’ Paterson.
Úc chính thức trở thành một quốc gia vào ngày 1 tháng 1 năm 1901 qua sự thành lập một chính phủ liên bang bao gồm các thuộc địa riêng biệt. Lực lượng quân đội Úc đã sát cánh chiến đấu với lực lượng Anh Quốc trong cuộc chiến Boer và Thế Chiến Thứ Nhất. Nền kinh tế Úc đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vì hai sản phẩm kinh tế chiến lược của Úc là len và lúa mì bị rớt giá thê thảm.
Năm 1931, gần một phần ba lực lượng lao động của Úc lâm vào tình trạng thất nghiệp và nạn nghèo khó đã lan rộng khắp nơi. Nhưng chỉ 2 năm sau đó, năm 1933, nền kinh tế Úc đã bắt đầu hồi phục trở lại. Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, quân Úc lại một lần nữa sát cánh chiến đấu với lực lượng quân đội Anh Quốc ở Châu Âu. Nhưng chính Hoa Kỳ là quốc gia đã giúp bảo vệ Úc khỏi sự tiến công của không lực Nhật bằng chiến thắng trên Biển San Hô.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Úc lại tiếp nhận thêm một làn sóng di dân mới từ Âu Châu. Những di dân này đã có những đóng góp đáng kể cho nước Úc, làm hưng thịnh nền văn hóa và mở rộng tầm nhìn của đất nước. Kỷ nguyên thời hậu chiến là thời gian nền kinh tế Úc phát triển bùng nổ do nhu cầu cao về nguyên liệu thô trên thế giới. Sau đó Úc đã tham gia với Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và năm 1965 đã gởi quân đội sang Việt Nam trợ giúp Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Việt Nam mặc dù việc hỗ trợ chỉ ở mức giới hạn. Lệnh tổng động viên được ban hành năm 1964 đã khiến nhiều thanh niên Úc đã gặp khó khăn vào thời gian này.
Tình trạng bất ổn trong xã hội do lệnh tổng động viên gây ra đã là yếu tố dẫn đến việc Đảng Lao Động lên cầm quyền vào năm 1972 dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Gough Whitlam. Chính quyền Whitlam đã triệt thoái lực lượng quân đội ở Việt Nam, hủy bỏ việc thi hành nghĩa vụ quân sự và học phí bậc đại học và cao đẳng đồng thời xây dựng một hệ thống y tế phổ cập, miễn phí và ủng hộ quyền làm chủ đất đai của Người Thổ Dân.
Tuy nhiên, Chính quyền của Thủ Tướng Whitlam đã bị hạn chế bởi sự chống đối của một Thượng Viện thù địch cũng như dư luận về bộ máy quản lý không hiệu quả. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1975, Tổng Toàn Quyền Úc (đại diện của Nữ Hoàng Anh ở Úc) đã thực hiện một điều chưa từng xảy ra ở Úc: Giải tán quốc hội và thành lập một chính phủ lâm thời dưới sự lãnh đạo của thủ lãnh Đảng Tự Do đối lập Malcolm Fraser. Liên đảng bảo thủ, bao gồm Đảng Tự Do và Đảng Quốc Gia, đã chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được tổ chức sau đó và đã ở vị thế cầm quyền cho đến mãi tới năm 1983, Đảng Lao Động dưới sự lãnh đạo của nguyên lãnh tụ công đoàn Bob Hawke mới giành lại quyền lãnh đạo chính quyền.
Sau 11 năm cầm quyền, Đảng Tự Do Úc do ông John Howard lãnh đạo đã bị Đảng Lao Động đánh bại trong cuộc bầu cử năm 2007. Ông Kevin Rudd chính thức tuyên thệ trở thành Thủ Tướng thứ 26 của nước Úc vào ngày 3 tháng 12 năm 2007.
Nước Úc có một hệ thống chính phủ với lưỡng viện quốc hội dựa theo hệ thống Westminster của Anh Quốc. Có ba cấp chính phủ: liên bang, tiểu bang và địa phương. Quốc hội liên bang gồm có hai viện: Thượng Viện và Hạ Viện. Đảng chính trị nắm đa số ghế tại Hạ Viện có quyền thành lập chính phủ. Muốn biết thêm chi tiết, xin vào khu mạng http://australia.gov.au/about-australia/our-government
(nguồn: studyinginaustralia.gov.uk)
Ngoài ra nếu bạn đang có dự định tìm kiếm cho mình tấm vé du học Úc 2024 thì hãy liên hệ với du học GSE, chuyên gia sẽ giúp các bạn tư vấn lộ trình du học một cách cụ thể và chi tiết nhất.
Mọi thông tin chi tiết, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi tại:
VP Hà Nội: Tầng 2 – Tòa nhà Toserco, 273 Kim Mã, Quận Ba Đình VP TPHCM: 255 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 5, Quận 3 VP Anh Quốc: Shooters Hill Road, London SE18 4LP VP Sydney, Úc: 443 Chapel Road, Bankstown NSW 2200 Australia
HOTLINE – 1900 7211 |GSE.EDU.VN| [email protected] | FB: TƯ VẤN DU HỌC GSE
Sự trở lại của Donald Trump làm dấy lên lo ngại về tương lai của ngành bán dẫn tại Mỹ, đặc biệt là đối với các công ty nước ngoài như TSMC và Samsung, những nhà đầu tư chính vào lĩnh vực sản xuất chip tại Mỹ.
Lịch sử hình thành và phát triển làng đá mỹ nghệ non nước
Cách đây khoảng bốn trăm năm. Vào khoảng thế kỷ XVII, đã có một truyền thống đá mỹ nghệ nằm dưới chân Ngũ Hành Sơn, người có công đầu khai sáng làng nghề nổi tiếng này là ông Huỳnh Bá Quát - vị cao tổ nhiều đời của quan Đô ngự sử Huỳnh Bá Chánh, Tán tương quân vụ Nghĩa hội Quảng Nam.
Huỳnh Bá Quát am tường nghề truyền thống do tổ nghiệp truyền dạy. Vì thế, khi từ Thanh Hóa vào định an sở nghiệp dưới chân núi Non Nước vào nửa đầu thế kỷ XVII, nhận thấy đây là cụm núi đá cẩm thạch, ông bèn ra công khai thác, rồi đục đẽo thành những tấm bia mộ, chế tác cối xay, chày và cối giã tiêu, giã thuốc Bắc, hoặc làm những hòn đá chì cung cấp cho ngư dân quanh vùng. Nhận thấy nghề đá này đem lại nguồn lợi trong lúc nông nhàn, ông bèn truyền dạy nghề cho con cháu trong gia đình và những người thân cận trong vùng.
Lúc bấy giờ sản phẩm chủ yếu phục vụ đời sống gồm những hòn chì đá dùng để buộc neo tàu thuyền, các loại cối giã gạo, xay bột; tiếp theo là những sản phẩm điêu khắc bia mộ, đặc biệt là những chế tác Rồng, Phượng, Rùa, nghề phục vụ cho trang trí tại các Chùa chiền, Miếu mạo, Lăng tẩm, cung đình. Những sản phẩm điêu khắc đá truyền nghề và phát triển qua nhiều đời, dần đi vào đời sống tinh thần, phản ảnh nền văn hoá truyền thống của một vùng dân cư với nghề điêu khắc đa mỹ nghệ.
Chẳng bao lâu sau, nghề đục đẽo đá này phát triển khá nhanh đến nỗi dưới triều nhà Nguyễn, nhằm ngăn chặn việc khai thác đá quy mô làm mất đi danh thắng Ngũ Hành Sơn, các đời vua Gia Long, Minh Mạng và Tự Đức đều có sắc chỉ cấm cư dân làng Quán Khái khai thác đá làm thủ công điêu khắc bán ra ngoài tỉnh và xuất khẩu sang các nước khác, chỉ được phép khai thác đá làm bia mộ nhỏ lẻ cung cấp trong vùng. Quán Khái là tên làng dưới chân núi Non Nước, lúc đó thuộc huyện Hòa Vang, xứ Quảng Nam.
Có thể nói, gần như hầu hết các văn bia thuộc địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng, từ đầu thế kỷ XVII cho đến sau này đều do thợ đá thủ công Non Nước điêu khắc. Nổi bật trong số đó có văn bia cổ dựng ở chùa Phổ Khánh, xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, được lập vào năm Mậu Ngọ (1678) đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3; Văn bia chùa Long Thủ, phường Bình Hiên, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, lập năm Quý Dậu (1693) đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa 14. Văn bia cử nhân Lê Tấn Toán, thầy của Hội chủ Nguyễn Duy Hiệu tại xã Điện Dương, huyện Điện Bàn; Văn bia Tú tài tại Quế Sơn...
Hiện nay, nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước đã vươn tới đỉnh cao nghệ thuật, không chỉ điêu khắc văn bia mà còn tạo tác các tượng đài, các nhân vật lịch sử, các danh nhân văn hóa, các linh vật Long, Lân, Quy, Phượng, các Phật Thánh Tiên Thần mang tính chất văn hóa tín ngưỡng tâm linh, tại các đền, chùa, lăng, miếu. Tạo tác khá phong phú các hình tượng, cảnh vật của tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông, hay mai, lan, cúc, trúc...
Làng đá mỹ nghệ Non Nước không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn lan tỏa khắp các châu lục qua hàng hóa xuất khẩu và ưa thích của du khách các nước mỗi khi đến Đà Nẵng, có dịp tham quan danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Ngày nay, qui mô sản xuất của làng nghề ngày càng được mở rộng, thu hút hàng ngàn lao động có tay nghề khá. Sản phẩm của làng nghề trở thành các mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao, đóng góp khoản ngân sách đáng kể vào tiềm năng kinh tế của thành phố Đà Nẵng.
Ở làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước có nhiều nghệ nhân nổi tiếng, nhiều gia đình có tới bảy tám thế hệ làm nghề điêu khắc đá. Nhiều sản phẩm được lưu truyền từ đời này sang đời khác như bộ ấm trà bằng đá do nghệ nhân Huỳnh Bá Triêm làm ra từ thời nhà Nguyễn. Vào những năm đầu thế kỷ 20, nghề chạm trổ đá làm ra các mẫu vật, nghề điêu khắc chân dung trên đá lần lượt xuất hiện do những bàn tay tài năng, khéo léo và trí sáng tạo tài tình của các nghệ nhân Huỳnh Đàn, Nguyễn Chất và nhiều nghệ nhân khác.
Đến thăm làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về tính đa dạng của các chủng loại sản phẩm, từ những pho tượng Phật, tượng Thánh, tượng người, muông thú cho đến những sản phẩm đồ lưu niệm được chạm trổ hoa văn rất đẹp. Khách tham quan từ nhiều nước đến đây đều ngưỡng mộ tài năng của các nghệ nhân điêu khắc và những sản phẩm độc đáo của họ. Ngoại trừ những sản phẩm đồ lưu niệm, nếu khách hàng muốn đặt mua những sản phẩm có trọng lượng lớn, cỡ kích to thì chỉ cần một khoản tiền đặt cọc hoặc một hợp đồng thỏa thuận giữa người mua và người bán kèm với địa chỉ của khách hàng, sản phẩm sẽ được bên bán đóng kiện cẩn thận và gửi theo đường biển đến tận nơi cho khách hàng.Rất nhiều thương gia hoặc khách du lịch từ Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Australia, Pháp, Canađa, Hà Lan, Mỹ... đã đến ký hợp đồng đặt mua các sản phẩm ở làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, trong đó có người mua với trị giá hàng trăm ngàn Đô-la.